Trước sự hội nhập hóa, việc tham gia điều ước quốc tế là xu thế tất yếu để Việt Nam tham gia hội nhập và phát triển kinh tế xã hội. Một điều kiện quan trọng khi tham gia các điều ước quốc tế chính là sự “nội luật hóa” văn bản pháp luật quốc gia sao cho phù hợp với quy định của điều ước mà Việt Nam là thành viên. Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022 là một minh chứng tiêu biểu. TasLaw xin gửi quý bạn bài viết: Luật Sở Hữu Trí Tuệ Sửa Đổi Bổ Sung Theo Nghị Định 2019.
1. Vì sao phải sửa đổi luật sở hữu trí tuệ?
Việt Nam đang trên con đường hội nhập hóa toàn cầu, việc gia nhập các hiệp định thương mại tự do cũng là một xu hướng tất yếu. Thời gian quan, Việt Nam gia nhập EVFTA nên việc nội luật hóa, thống nhất giữa pháp luật quốc gia là pháp luật quốc tế là điều bắt buộc cũng như thể hiện cam kết của Việt Nam khi xin gia nhập. Chẳng hạn, theo Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định tại Điều 198b của dự thảo Luật SHTT được xây dựng trên cơ sở nội luật hóa quy định tại Điều 12.55 của Hiệp định EVFTA. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, sau một thời gian áp dụng cũng tồn tại một số bất cập. Kết hợp với việc Việt Nam gia nhập EVFTA, đây chính là lý do cần sửa đổi, bổ sung.
2. Một số thay đổi về quyền tác giả
2.1. Bổ sung nội dung về tác giả, đồng tác giả
Điều 12a Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022 quy định tác giả, đồng tác giả như sau:
1. Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm. Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả”.
Điều luật xác định tác giả phải là người “trực tiếp” sáng tạo tác phẩm, nếu là một người thì là tác giả, nếu từ 2 người trở lên thì xác định là đồng tác giả khi sự đóng góp của họ tạo thành tổng thể thống nhất. Đây là một sự sửa đổi của luật khi nghị định cũ (Điều 6.1 NĐ 22/2018/NĐ-CP xác định những tác giả cùng trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học).
2. Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả.
Đây là quy định mới khi luật đưa ra định nghĩa tác giả, đồng tác giả và không công nhận là tác giả, đồng tác giả với những người có tư cách xác định theo khoản 2.
3. Việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm có đồng tác giả phải có sự thỏa thuận của các đồng tác giả, trừ trường hợp tác phẩm có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác hoặc luật khác có quy định khác.”. (Đây là một quy định hoàn toàn mới).
2.2. Bổ sung quyền nhân thân của tác giả
Điều 19 Luật SHTT hiện hành quy định về Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:
1. Đặt tên cho tác phẩm. Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
2.3 Bổ sung các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả
Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả quy định tại Điều 25 Luật SHTT hiện hành như sau:
1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:
a) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
b) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
c) Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận các tác phẩm này;
d) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của các cơ quan nhà nước;
đ) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;
e) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
g) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó không nhằm mục đích thương mại;
i) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;
k) Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;
l) Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó ( Đây là quy định mới bổ sung so với luật sửa đổi năm 2019)
m) Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm theo quy định tại Điều 25a của Luật này.
2. Việc sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
3. Việc sao chép quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính; việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm.
2.4. Thay đổi trong hồ sơ đăng ký quyền tác giả, đăng ký quyền liên quan
So với các bản sửa đổi trước, luật SHTT hiện hành đã có sự chỉnh lý tại Điều 50.2 về Hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
2. Hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm:
a) Tờ khai đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
Tờ khai phải được làm bằng tiếng Việt có đầy đủ thông tin về người nộp hồ sơ, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan; thời gian hoàn thành; tóm tắt nội dung tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình hoặc chương trình phát sóng; tên tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, tác phẩm được sử dụng làm tác phẩm phái sinh nếu tác phẩm đăng ký là tác phẩm phái sinh; thời gian, địa điểm, hình thức công bố; thông tin về cấp lại, cấp đổi (nếu có), cam đoan về trách nhiệm đối với các thông tin ghi trong tờ khai. Tờ khai do chính tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan ký tên hoặc điểm chỉ, trừ trường hợp không có khả năng về thể chất để ký tên hoặc điểm chỉ.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu tờ khai đăng ký quyền tác giả, đăng ký quyền liên quan;
b) Hai bản sao tác phẩm đăng ký quyền tác giả hoặc hai bản sao bản định hình đối tượng đăng ký quyền liên quan;
c) Giấy ủy quyền, nếu người nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan là người được ủy quyền;
d) Tài liệu chứng minh là chủ sở hữu quyền do tự sáng tạo hoặc do giao nhiệm vụ sáng tạo, giao kết hợp đồng sáng tạo, được thừa kế, được chuyển giao quyền;
đ) Văn bản đồng ý của các đồng tác giả, nếu tác phẩm có đồng tác giả;
e) Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả, quyền liên quan thuộc sở hữu chung.
3. Tài liệu quy định tại các điểm c, d, đ và e khoản 2 Điều này phải được làm bằng tiếng Việt; trường hợp làm bằng ngôn ngữ khác thì phải được dịch ra tiếng Việt.
2.5. Bổ sung hình thức nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan
Điều 50.1 Luật SHTT hiện hành quy định: Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan theo cách thức trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính, qua Cổng dịch vụ công trực tuyến cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan.
So với Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 thì luật chỉ giới hạn hình thức nộp trực tiếp hoặc ủy quyền nộp tại cơ quan đăng ký, song, luật SHTT hiện hành sửa đổi năm 2022 đã bổ sung thêm hình thức nộp hồ sơ qua Cổng dịch vụ công trực tuyến hoặc dịch vụ bưu chính.
3. Một số thay đổi về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
3.1. Bổ sung quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước
Căn cứ khoản 1 Điều 86a Luật SHTT hiện hành về quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước thì: đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng toàn bộ ngân sách nhà nước, quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được giao cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ một cách tự động và không bồi hoàn, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
Đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, trong đó có một phần ngân sách nhà nước, phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tương ứng với tỷ lệ phần ngân sách nhà nước được giao cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ một cách tự động và không bồi hoàn, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia được thực hiện như sau:
- Trường hợp nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng toàn bộ ngân sách nhà nước, quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thuộc về Nhà nước;
-Trường hợp nhiệm vụ khoa học và công nghệ được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, trong đó có một phần ngân sách nhà nước, phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tương ứng với tỷ lệ phần ngân sách nhà nước thuộc về Nhà nước;
-Đại diện chủ sở hữu nhà nước thực hiện quyền đăng ký quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
Luật SHTT năm 2022 bổ sung Điều 133a. Theo đó, thiết lập các trường hợp Nhà nước giao quyền đăng ký sáng chế là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân khác, và các trường hợp Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng sáng chế, mà không cần sự đồng ý của người nắm độc quyền sử dụng.
Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022 cũng quy định cụ thể về nghĩa vụ mà chủ sở hữu phải trả thù lao cho tác giả sáng chế, nghĩa vụ về trả khoản tiền đền bù khi sử dụng sử dụng sáng chế và nghĩa vụ của tổ chức chủ trì đối với sáng chế là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước. Ngoài ra, luật sửa đổi một phần cũng quan trọng là: tổ chức, cá nhân quản lý nguồn gen cung cấp, đầu tư nguồn gen, tri thức truyền thống về nguồn gen theo hợp đồng tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác cũng có quyền đăng ký sáng chế.
3.2. Tính mới sáng chế
Điều 60 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, 2022 quy định về tính mới của sáng chế như sau: Sáng chế được coi là có tính mới nếu không thuộc một trong các trường hợp sau đây:
-Bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên;
-Bị bộc lộ trong đơn đăng ký sáng chế khác có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn nhưng được công bố vào hoặc sau ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế đó.
Như vậy, 2 điều kiện bộc lộ của sáng chế là: Bộc lộ dưới dạng là tài liệu sáng chế và Bộc lộ dưới dạng là tài liệu phi sáng chế, tương ứng, đối với sáng chế xin đăng ký được coi là có tính mới, cụ thể:
-Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
-Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86, Điều 86a của Luật này hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp tại Việt Nam trong thời hạn mười hai tháng kể từ ngày bộc lộ. Quy định tại khoản 3 Điều này cũng áp dụng đối với sáng chế được bộc lộ trong đơn đăng ký sở hữu công nghiệp hoặc văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp do cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp công bố trong trường hợp việc công bố không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc đơn do người không có quyền đăng ký nộp.
Quy định hiện nay đã khắc phục được tình trạng đơn sáng không được xem là một phần của tình trạng kỹ thuật đã biết trong việc đánh giá tính mới của đơn nộp sau do đơn sáng chế nộp trước nhưng lại công bố vào hoặc sau ngày công bố của đơn nộp sau. Điều này chưa thỏa đáng về sự cân bằng giữa quyền của chủ sở hữu và quyền lợi của công chúng. Luật SHTT hiện hành đã khắc phục được điều này thông qua cách xác định về “điều kiện bộc lộ” được nêu ở trên.
3.3. Chấm dứt hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế
Như chúng ta đã biết, hiệu lực của văn bằng bảo hộ có thể bị chấm dứt toàn bộ hoặc một phần nhưng các bản sửa đổi trước lại không đưa ra quy định xác định. Khắc phục tình trạng đó, Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022 tại khoản 1 điều 95 đã quy định theo hướng: Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt toàn bộ hoặc một phần hiệu lực trong một số trường hợp nhất định. Ngoài ra, Luật sửa đổi năm 2022 cũng bổ sung các quy định vào Điều 95 để xác định rõ thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản bảo hộ trong một số trường hợp.
Hiệu lực của văn bản bảo hộ bị chấm dứt kể từ ngày cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp ban hành quyết định chấm dứt hiệu lực văn bản bảo hộ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 95 (chủ bằng sáng chế không còn tồn tại) và hiệu lực của văn bản bảo hộ bị chấm dứt kể từ ngày cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp nhận được tuyên bố bằng văn bản của chủ văn bằng bảo hộ (Chủ văn bằng bảo hộ tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp).
4. Một số thay đổi về nhãn hiệu
4.1. Tạm dừng thẩm định đơn nhãn hiệu
Đây là lần đầu tiên Luật SHTT quy định về việc tạm dừng quy trình thẩm định đơn nhãn hiệu tại điều 117 khoản 3. Quy trình thẩm định đơn sẽ được tạm dừng nếu rơi vào một trong ba trường hợp sau đây:
- Chủ đơn nộp đề nghị tạm dừng thẩm định đơn và yêu cầu chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu đối chứng do nhãn hiệu xin đăng ký bị coi là tương tự với nhãn hiệu đối chứng theo điểm e khoản 2 Điều 74;
- Chủ đơn nộp đề nghị tạm dừng thẩm định đơn và yêu cầu chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu đối chứng do nhãn hiệu xin đăng ký bị coi là tương tự với nhãn hiệu đối chứng mà đã hết hạn hiệu lực chưa quá 3 năm theo điểm h khoản 2 Điều 74;
- Chủ đơn khởi kiện liên quan đến quyền đăng ký đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc nhãn hiệu được đăng ký với dụng ý xấu.
4.2. Nhãn hiệu âm thanh
Để phù hợp với quy định của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới EVFTA và CPTPP mà Việt Nam là thành viên, pháp luật lần đầu tiên công nhận và đưa ra quy định bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Nhãn hiệu âm thanh là một loại nhãn hiệu phi truyền thống lần đầu tiên được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu theo quy định mới được sửa đổi năm 2022. Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh là một yêu cầu bắt buộc theo Điều 18.18 của Hiệp định CPTPP mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, không bên nào được yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được, cũng như không Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh.
Điều 105.2 quy định việc người nộp đơn cần nộp những tài liệu sau để hoàn thiện đơn đăng ký nhãn hiệu âm thanh tại Việt Nam:
- Bản ghi âm từ tính của nhãn hiệu trên một phương tiện cho phép dễ dàng phát lại. Hiện nay, phương tiện phổ biến nhất là đĩa CD, DVD và bản ghi MP3;
- Bản thể hiện bằng hình ảnh đồ họa của nhãn hiệu âm thanh đó (nghĩa là nhãn hiệu âm thanh ở Việt Nam phải được thể hiện bằng dạng đồ họa) để kiểm tra tính phân biệt và tính khả dụng của âm thanh đó cho mục đích đăng ký.
Điều 73.7 quy định về Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu nhằm quy định trường hợp làm căn cứ từ chối nhãn hiệu âm thanh, đó là “dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm, trừ trường hợp được phép của chủ sở hữu tác phẩm đó”. Đây được coi là một cơ chế bảo hộ chặt chẽ đối với nhãn hiệu âm thanh, tránh chồng lấn quyền nhãn hiệu âm thanh với quyền tác giả cho các tác phẩm liên quan đến/kèm theo âm thanh. Đây được đánh giá là điều khoản mở và có thể được sử dụng trong nhiều trường hợp nhãn hiệu khác ngoài những trường hợp liên quan đến nhãn hiệu âm thanh. Tuy nhiên, một đoạn ký hiệu âm nhạc dài, chẳng hạn như toàn bộ bản nhạc của dàn nhạc hoặc piano, không có khả năng đáp ứng các yêu cầu về khả năng đăng ký.
5. Tư vấn luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung mới nhất tại TasLaw
Đặt uy tín và quyền lợi của Quý khách hàng lên hàng đầu, cùng đội ngũ chuyên viên dày dặn kinh nghiệm, Taslaw tự tin cung cấp những thông tin pháp lý cần thiết và cùng quý khách hàng hoàn thiện hồ sơ đăng ký quyền sở hữu trí tuệ một cách nhanh chóng và thuận tiện thông qua những dịch vụ sau:
-
Tư vấn khái quát về quyền, nghĩa vụ của chủ thể khi nộp đơn đăng ký quyền sở hữu trí tuệ Soạn thảo bộ hồ sơ đăng ký nhãn hiệu giúp quý khách hàng, cụ thể hóa yêu cầu của khách hàng
-
Giải quyết sự cố phát sinh trong quá trình làm thủ tục, chịu trách nhiệm trong phạm vi của mình.
Quý khách quan tâm dịch vụ vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH T.A.S
Địa chỉ: Số 4 ngách 56 ngõ 1 Đại Linh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 0944 993 480
Email: taslawcompany@gmail.com
Website: https://taslaw.vn