Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, vấn đề quyền tác giả rất được pháp luật Việt Nam quan tâm, thể hiện qua việc Quốc hội đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn, đồng thời, nước ta cũng ký kết nhiều hiệp định song phương, đa phương về vấn đề bảo hộ quyền tác giả. Vậy Quyền tác giả là gì? Bảo hộ quyền tác giả như thế nào? Taslaw xin gửi tới quý bạn những vấn đề pháp lý liên quan qua bài viết dưới đây.
1. Quyền tác giả là gì?
1.1. Khái niệm quyền tác giả
Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền liên quan) đã được định nghĩa trong Luật Sở hữu trí tuệ. Có thể hiểu quyền tác giả là quyền của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm mà họ sáng tạo ra hoặc sở hữu (Điều 4.2 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005) còn quyền liên quan là quyền của các chủ thể đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, v.v.
1.2. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
Điều 14, Luật Sở hữu trí tuệ quy định cụ thể về các đối tượng được đăng ký quyền tác giả như:
-
Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ như: tác phẩm báo chí, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu,... (Khoản 1, Điều 14, Luật Sở hữu trí tuệ)
-
Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh (Khoản 2, Điều 14, Luật Sở hữu trí tuệ)
-
Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm người khác (Khoản 3, Điều 14, Luật Sở hữu trí tuệ)
1.3. Các tác phẩm không được bảo hộ quyền tác giả
Về nguyên tắc, mọi tác phẩm mà được bảo hộ theo pháp luật về sở hữu trí tuệ đều có thể đăng ký quyền tác giả với Cục Bản quyền Tác giả. Theo đó, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, và khoa học được bảo hộ quyền tác giả và được đăng ký quyền tác giả.
Các tác phẩm nêu trên nếu không mang tính sáng tạo, hoặc mang tính quy luật, sự thật hiển nhiên thì sẽ không được bảo hộ quyền tác giả, do đó không thể đăng ký quyền tác giả. Chẳng hạn tin tức thời sự thuần túy, các văn bản pháp luật, các nguyên lý sẽ không được bảo hộ.
Điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 19 Nghị Định 22/2018/NĐ-CP cũng quy định các trường hợp không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả, cụ thể:
-
Tin tức thời sự thuần túy không mang tính sáng tạo, chỉ mang tính đưa thông tin như: dịch bệnh, tai nạn, tin tức xã hội hằng ngày mang tình nhất thời... Tuy nhiên, đối với loại bản tin thời sự có kèm bình luận, phân tích, nhận xét thể hiện sự sáng tạo về trí tuệ của tác giả thì vẫn được bảo hộ quyền tác giả.
-
Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính (như văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị); các văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó không được bảo hộ quyền tác giả bởi những văn bản này mang tính quyền lực nhà nước, có phạm vi tác động tới toàn lãnh thổ của một quốc gia. Nếu bảo hộ những “tác phẩm” này thì công chúng nếu muốn sử dụng phải xin phép chủ sở hữu và điều đó đi ngược lại mục đích ban hành của các loại văn bản này, là nhằm để phổ biến rộng khắp tới tất cả mọi người.
-
Các quy trình, khái niệm, nguyên lý, số liệu không thành đối tượng được bảo hộ quyền tác giả vì nó không đảm bảo các điều kiện về tính sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
1.4. Phân biệt bản quyền và quyền tác giả
Như đã trình bày ở trên, quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Bản quyền là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ, mô tả quyền mà tác giả có đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ. Bản quyền gồm: quyền tác giả và quyền liên quan.
Trên thế giới, một số quốc gia đồng nhất hai khái niệm này khi xây dựng luật. Tại Việt Nam, hai khái niệm này có phần giống nhau, bao trùm lên nhau, song cũng có những khác biệt:
- Đối với quyền tác giả, khái niệm này được sử dụng chủ yếu ở các nước có hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, xuất phát từ quan điểm muốn gắn chặt mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm. Pháp luật cũng chú trọng tới việc bảo hộ quyền tác giả, đặc biệt các quyền tinh thần của người sáng tạo ra tác phẩm, nhấn mạnh các ý nghĩa của tác giả đối với hoạt động sáng tạo, mang đến sản phẩm có giá trị. Quyền tác giả coi người sáng tạo ra tác phẩm là trung tâm và bảo hộ các quyền nhân thân và quyền tài sản.
- Đối với bản quyền, khái niệm này được sử dụng chủ yếu ở các nước có hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, xuất phát từ khía cạnh thương mại. Bản quyền ưu tiên bảo vệ quyền lợi kinh tế của người sở hữu quyền tác giả hơn là chính tác giả. Khi đó, các chủ thể thực hiện quản lý, sử dụng cũng như khai thác tác phẩm đều được bảo hộ. Họ có thể là tác giả hoặc chủ thể có quyền theo quy định pháp luật. Xuất phát từ bản chất của “bản quyền” mang tính thương mại nên nó nhấn mạnh tới quyền sao chép, nhân bản tác phẩm, chú trọng tới giá trị kinh tế của tác phẩm chứ không chú trọng tới bản thân tác giả nên quyền tinh thần của tác giả cũng không mấy được coi trọng. Bản quyền được nhìn nhận, tiếp cận rộng hơn đối với các chủ thể có quyền.
Sau này, các quốc gia và các tổ chức quốc tế bắt đầu có sự hội nhập và giao thoa với nhau tích cực hơn, những khác biệt giữa hai khái niệm này dần được thay đổi, hòa nhập với nhau hơn. Chúng không quá khác biệt về đối tượng, cách hiểu và hướng áp dụng theo thực tế, do đó, để hệ thống pháp luật của quốc gia được thống nhất, các nước sẽ chọn một thuật ngữ để xây dựng quy phạm pháp luật cho mình. Các quốc gia trên thế giới đều thống nhất điểm chung giữa hai thuật ngữ là phạm vi các quyền (bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản) của chủ thể (bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả) đối với tác phẩm của họ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
Việt Nam xây dựng hệ thống pháp luật theo hệ thống châu Âu lục địa, do đó, nước ta sử dụng thuật ngữ chính là “quyền tác giả”, song, nước ta cũng đón nhận cởi mở thuật ngữ “bản quyền”. Cơ quan đăng ký quyền tác giả là Cục Bản quyền tác giả.
2. Nội dung bảo hộ quyền tác giả
2.1. Quyền nhân thân của tác giả
Quyền nhân thân là các quyền mang yếu tố tinh thần của chủ thể đối với tác phẩm, vì vậy có còn được gọi là “quyền tinh thần”. Về bản chất, quyền nhân thân gắn liền với chủ thể nhất định mà không thể chuyển dịch. Song, có những quyền tuy được xác định là quyền nhân thân nhưng lại là cơ sở, tiền đề để chủ thể thực hiện quyền tài sản. Căn cứ tính chất chuyển dịch, quyền nhân thân được chia làm 2 nhóm: quyền nhân thân không thể chuyển dịch và quyền nhân thân có thể chuyển dịch.
Theo quy định của pháp luật về SHTT, các quyền nhân thân không thể chuyển dịch (quyền nhân thân tuyệt đối) bao gồm:
-
Quyền đặt tên cho tác phẩm. Tên gọi của tác phẩm là một yếu tố để cá biệt hóa tác phẩm, giúp công chúng có thể nhận biết và phân biệt tác phẩm đó với tác phẩm khác. Tác phẩm là sản phẩm tinh thần của tác giả, do đó, quyền đặt tên cho tác phẩm là quyền luôn gắn liền với tác giả và không thể chuyển dịch sang người khác. Ngoại lệ của quyền này chính là không áp dụng với tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (Điều 20, nghị định số 22/2018/NĐ-CP).
-
Quyền đứng tên của tác giả đối với tác phẩm. Đây là quyền khẳng định địa vị tác giả đối với tác phẩm, quyền được thừa nhận là tác giả. Ví dụ, tác giả tác phẩm hội họa thường để lại chữ ký trên tác phẩm họ sáng tạo ra. Kể cả trường hợp, tác giả dù không nêu tên hoặc chỉ đứng bút danh, bí danh trên tác phẩm thì quyền tác giả vẫn được bảo hộ, với điều kiện tác giả chứng minh được tác phẩm đó là do mình sáng tạo sau khi tác phẩm đó được công bố, sử dụng. Đây là quyền nhân thân luôn gắn liền với tác giả và không thể chuyển giao cho người khác, kể cả khi tác giả đồng ý.
-
Quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Bất kỳ hình thức nào nêu trên đều có thể ảnh hưởng tới ý tưởng sáng tạo của tác giả trong tác phẩm, thậm chí có thể làm sai lệch ý đồ sáng tạo của tác giả, xâm hại tới giá trị tinh thần của tác phẩm. Bất kỳ sự thay đổi nào không được tác giả cho phép, làm ảnh hưởng đến ý tưởng, cách thể hiện tác phẩm đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên, những sửa đổi mang tính kỹ thuật mà không thay đổi nội dung, tư tưởng, hình thức thể hiện của tác phẩm thì không cần sự cho phép của tác giả. Chẳng hạn, nhạc công chỉnh tông nhạc cho phù hợp với giọng của ca sĩ.
Ba quyền trên được coi là quyền nhân thân tuyệt đối vì đây là quyền mang giá trị tinh thần, phi vật chất; luôn tồn tại và gắn liền với tác giả, không thể chuyển dịch cho người khác, kể cả khi tác giả chết hay đồng ý chuyển giao cho người khác, đây cũng là những quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn.
Quyền nhân thân có thể chuyển dịch (quyền nhân thân tương đối) gồm quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm. căn cứ Điều 3.3 Công ước Berne, công bố tác phẩm được hiểu là việc tác phẩm được chính tác giả hoặc người được tác giả đồng ý nhân bản và đưa vào lưu thông với số lượng đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng. Điều 20.2 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP cũng đã hướng dẫn vấn đề này. Chỉ được coi là công bố tác phẩm, nếu: (i) Việc công bố do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện; hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả; (ii) Có phát hành đến công chúng “một số lượng bản sao hợp lý” tác phẩm, đủ để đáp ứng nhu cầu của công chúng. Tác giả có quyền công bố hoặc không công bố tác phẩm. Khi tác giả sáng tạo tác phẩm theo hợp đồng hoặc theo nhiệm vụ được giao, tức tác giả đã chấp nhận chuyển giao quyền công bố tác phẩm cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Tuy là quyền nhân thân nhưng quyền này có giá trị kinh tế, có thể chuyển giao cho người khác hay thừa kế, có thời hạn bảo hộ hữu hạn như các quyền tài sản. Tuy vậy, quyền này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định cơ chế pháp lý của tác phẩm.
2.2 Quyền tài sản của tác giả
Quyền tài sản đem lại cho tác giả lợi ích về kinh tế. Chủ thể sáng tạo, đầu tư cho tác phẩm là người được hưởng các quyền tài sản để khai thác, thu nhận các lợi ích vật chất từ tác phẩm nhằm bù đắp các kinh phí vật chất đã bỏ ra, tái tạo sức lao động để tiếp tục sáng tại.
Căn cứ Điều 20 Luật SHTT và Điều 21, Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, các quyền tài sản đó bao gồm:
-
Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng. Được hiểu là việc trình bày tác phẩm theo hình thức, phương tiện nhất định để chuyển tải tác phẩm cho công chúng có thể tiếp cận được. Quyền này là độc quyền thuộc về chủ sở hữu, vì thế, chủ thể có quyền có thể tự biểu diễn tác phẩm hoặc cho phép người khác thực hiện.
-
Quyền làm tác phẩm phát sinh. Được hiểu là sự phát triển, làm mới một tác phẩm đã có.Tổ chức, cá nhân muốn làm tác phẩm phái sinh thì phải xin phép và trả thù lao, nhuận bút, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu tác phẩm gốc. Điều 28.7 Luật SHTT, các hành vi làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả bị coi là hành vi xâm phạm, trừ trường hợp ngoại lệ là “chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị”.
-
Quyền sao chép tác phẩm. Đây là được coi là quyền tài sản quan trọng nhất trong các quyền tài sản thuộc quyền tác giả vì quyền kiểm soát hành vi sao chép là cơ sở pháp lý đối với mọi hình thức khai thác các tác phẩm được bảo hộ như: công bố, phân phối, truyền đạt, cho thuê… tác phẩm. Điều 25 Luật SHTT quy định một số trường hợp ngoại lệ.
-
Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Đây là việc chủ sở hữu khai thác QTG bằng cách bán, chuyển giao bản vật thể hóa tác phẩm cho các chủ thể khác. Theo Điều 21.3 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, quyền phân phối được hiểu rất rộng, bao gồm bất kỳ hình thức chuyển nhượng hoặc cho thuê bản gốc hay bản sao.
-
Truyền đạt tác phẩm đến công chúng. Căn cứ theo Điều 21.3 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, ta có thể hiểu, truyền đạt tác phẩm là hình thức phổ biến tác phẩm một cách rộng rãi tới công chúng thông qua mạng truyền thông và những phương tiện kỹ thuật. Chủ sở hữu QTG hoặc có thể cho phép người khác thực hiện.
-
Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Đối tượng của quyền này thường là tác phẩm điện ảnh và chương trình máy tính. Bên thuê sử dụng tác phẩm và phải trả tiền thuê cho chủ sở hữu QTG theo thỏa thuận.
2.3. Sử dụng hợp lý bản quyền tác giả
Sử dụng hợp lý quyền tác giả hay có thể gọi là giới hạn quyền tác giả. Điều 7.3 Luật SHTT khẳng định nguyên tắc giới hạn quyền tác giả. Theo nghĩa rộng, giới hạn QTG là những quy định chế QTG trong những trường hợp để bảo vệ lợi ích công cộng. Theo nghĩa hẹp, giới hạn QTG chỉ liên quan đến các giới hạn về nội dung QTG, theo đó, QTG bị hạn chế trong những trường hợp người khác có thể sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép chủ sở hữu QTG, thậm chí không phải trả các khoản lợi với lý do hoặc điều kiện thỏa đáng. Luật SHTT có hai quy định tại điều 25, 26.
2.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Quyền tác giả bao gồm hai nhóm quyền là quyền nhân thân và quyền tài sản. Tùy thuộc tính chất, mức độ ảnh hưởng mà chúng có thời hạn bảo hộ khác nhau.
Các quyền được bảo hộ vô hạn. Pháp luật ghi nhận các quyền nhân thân gắn liền với tác giả là không thể chuyển dịch: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật giả đối với tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Các quyền được bảo hộ hữu hạn. Các quyền đối với tác phẩm được pháp luật bảo hộ. Riêng quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm, mặc dù là quyền nhân thân nhưng thuộc trường hợp bảo hộ có thời hạn như quyền tài sản. Khoản 3 Điều 19 về Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm lại được pháp luật bảo hộ có thời hạn. Cụ thể, thời hạn bảo hộ này là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Tuy nhiên, có ba trường hợp đặc biệt sau:
-
Với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh đã được công bố thì thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
-
Với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
-
Với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính như trường hợp bình thường là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết.
3. Đăng ký bản quyền tác giả
Căn cứ khoản 2,3 Điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019:
-
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
-
Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Đăng ký bản quyền tác giả là việc tác giả, chủ sở hữu tác phẩm nộp hồ sơ cho Cục Bản quyền Tác giả để cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả cho tác phẩm nhằm ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phẩm.
Đăng ký bản quyền không phải yêu cầu bắt buộc, nhưng nếu tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đăng ký quyền tác giả với Cục bản quyền Tác giả sẽ mang lại nhiều thuận lợi phòng trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Đặc biệt, việc đăng ký sẽ là cơ sở xác nhận thời điểm phát sinh quyền tác giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm. Chủ sở hữu tác phẩm, tác giả nên thực hiện việc bảo hộ quyền tác giả. Đăng ký quyền tác giả là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có sự xâm phạm và là cơ sở chứng minh thời điểm phát sinh quyền.
4. Chuyển nhượng quyền tác giả và chuyển quyền sử dụng tác phẩm
Chuyển nhượng quyền tác giả là việc chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan chuyển giao quyền tác giả đối với nhóm quyền tài sản và quyền liên quan.
Đối với nhóm quyền nhân thân, bởi nó gắn liền với cá nhân tác giả (quyền bảo hộ tuyệt đối) nên không thể chuyển giao, trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Nếu tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển giao quyền tác giả đối với hình thức này phải có sự thỏa thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu.
Việc chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan phải được lập thành văn bản dưới dạng hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả. Hợp đồng này sẽ có những điều khoản về quyền và nghĩa vụ giữa các bên chuyển nhượng.
Đối với bên chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan sẽ có quyền và nghĩa vụ sau:
- Có trách nhiệm chuyển giao bản sao tác phẩm cho bên nhận chuyển nhượng quản lý và khai thác quyền tác giả đã được chuyển nhượng.
- Không được chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan cho tổ chức, cá nhân khác kể từ khi hợp đồng có hiệu lực.
Đối với bên nhận chuyển nhượng sẽ có quyền và nghĩa vụ sau:
- Khai thác quyền tác giả trong phạm vi được chuyển nhượng, tuân thủ theo quy định của pháp luật
- Có nghĩa vụ thanh toán cho bên chuyển nhượng số tiền chuyển nhượng theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Chuyển quyền sử dụng tác phẩm là việc chủ sở hữu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời hạn một, một số hoặc toàn bộ các nhóm quyền tài sản của quyền tác giả và quyền liên quan (Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình; Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình; Phát sóng cuộc biểu diễn; Bán, cho thuê bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn).
Tác giả chỉ được phép chuyển sử dụng quyền công bố tác phẩm, không được phép chuyển sử dụng các quyền nhân thân khác. Trong trường hợp tác phẩm có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan phải có sự thỏa thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu. Trong trường hợp tác phẩm có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu có thể chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác.
Việc chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan theo hình thức chuyển quyền sử dụng nên được thực hiện thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng.
Đặc điểm của hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan:
- Là hợp đồng dân sự đặc biệt, mang tính chất đền bù hoặc không có đền bù.
- Trong hợp đồng này, bên sử dụng không phải là chủ sở hữu đối với những quyền được chuyển giao và cũng chỉ có quyền sử dụng các quyền đó theo hình thức nhất định được thỏa thuận trong hợp đồng.
- Quyền năng sử dụng tác phẩm bị giới hạn trong phạm vi thời gian và không gian trong hợp đồng.
5. Hành vi vi phạm quyền tác giả và thực thi quyền tác giả
Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định 16 hành vi được xem là hành vi vi phạm bản quyền tác giả. Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện một trong các hành vi trên thì tùy vào mức độ và tính chất của hành vi mà có thể bị xử lý dân sự, hành chính hoặc hình sự.
Các hành vi xâm phạm quyền tác giả bao gồm:
-
Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
-
Mạo danh tác giả.
-
Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
-
Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.
-
Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
-
Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật SHTT.
-
Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật SHTT.
-
Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật SHTT.
-
Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
-
Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
-
Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
-
Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
-
Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.
-
Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
-
Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
-
Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả
Thực thi quyền tác giả. Về cơ bản, các quy định về thực thi quyền tác giả của pháp luật Việt Nam tương thích với các Công ước quốc tế quan trọng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả mà chúng ta đã và sẽ thành viên như: Công ước Berne, Hiệp định TRIPs. Pháp luật hiện hành của nước ta quy định ba loại phương thức được áp dụng để thực thi quyền tác giả. Cụ thể là phương thức dân sự, phương thức hành chính và phương thức hình sự. Đối với các hành vi xâm phạm quyền tác giả, thường sẽ bị xử lý phạt hành chính theo quy định tại Nghị định Số: 131/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định Số: 28/2017/NĐ-CP. Hình thức xử phạt được áp dụng đó là cảnh cáo, phạt tiền, và các biện pháp phạt bổ sung, hình thức khắc phục. Điều 225 Bộ Luật Hình sự 2015 cũng có quy định về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và chế tài xử lý có thể lên đến bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với cá nhân phạm tội; phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm đối với pháp nhân phạm tội.
7. Bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm nước ngoài
7.1 Công ước quốc tế và điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế quan trọng nhất về bảo hộ quyền tác giả là Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật. Điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ theo Công ước Berne cũng phải đảm bảo được định hình dưới một hình thức nhất định. Công ước cũng quy định rõ các nước thành viên tham gia nếu theo luật pháp nước mình quy định “coi sự tuân thủ các thủ tục như lưu chiếu, đăng ký, thông báo như là một điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ thì cũng phải coi đây là một điều kiện bảo hộ theo Công ước”. Các tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào việc công bố hoặc chưa công bố nếu như quốc gia có tác phẩm đó là thành viên của Công ước. Nếu bạn là công dân hay cư dân của một nước là thành viên Công ước Berne, hoặc nếu bạn đã công bố tác phẩm của mình tại một trong số các nước thành viên của Công ước, thì tác phẩm của bạn sẽ tự động được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả theo quy định trong Công ước Berne ở tất cả các nước thành viên còn lại của Công ước này. Ngoài ra, tác phẩm của bạn cũng sẽ được bảo hộ ở các nước thành viên khác giống như các nước đó bảo hộ các tác phẩm của công dân nước mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo hộ quyền tác giả có tính chất lãnh thổ. Tác phẩm của bạn chỉ được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý được quy định bởi pháp luật về quyền tác giả của nước mà bạn muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy, mỗi nước có hệ thống bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều đạo luật quy định
7.2 Hiệp định về quyền tác giả Việt – Mỹ
Đây là điều ước quốc tế song phương về bảo hộ quyền tác giả giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được ký kết vào ngày 27/6/1997 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 23/12/1998. Hiệp định này quy định các nội dung cơ bản sau: Tác phẩm được bảo hộ; Phạm vi các quyền tác giả được bảo hộ; điều kiện bảo hộ; những quy định khác.
Hiệp định dựa trên nguyên tắc cơ bản - nguyên tắc đối xử quốc gia. Theo đó, mỗi bên ký kết, phù hợp với pháp luật của mình, sẽ dành cho các tác phẩm của những tác giả, nhà sáng tạo và nghệ sĩ là công dân hoặc người thường trú của bên ký kết kia và cho tác phẩm công bố lần đầu tại lãnh thổ của bên ký kết kia sự bảo hộ quyền tác giả không kém thuận lợi hơn sự bảo hộ mà bên đó dành cho công dân nước mình.
Những tác phẩm được bảo hộ gồm những tác phẩm mà một công dân hoặc người thường trú của một trong các bên ký kết có những quyền kinh tế theo luật quyền tác giả tại lãnh thổ của bên kia, hoặc khi những quyền nói trên thuộc về một pháp nhân do bất kì một công dân, hoặc người thường trú nào của bên kia kiểm soát trực tiếp, gián tiếp hoặc có quyền sở hữu đối với phần lớn cổ phần hoặc tài sản của pháp nhân, miễn là quyền sở hữu nói trên phát sinh trong vòng một năm kể từ ngày công bố lần đầu tác phẩm đó tại một nước thành viên của một điều ước đa phương về quyền tác giả mà một trong các bên ký kết là thành viên tại thời điểm Hiệp định này có hiệu lực.
7.3 Bản ghi nhớ về vấn đề quyền tác giả
Trước khi bắt đầu ký kết hợp đồng chính thức, các bên thường có những buổi đàm phán, thương lượng về nội dung của hợp đồng đang dự định ký kết. Thông thường, đối với những hợp đồng có giá trị lớn, phức tạp, các bên sẽ lập văn bản ghi nhận những nội dung đã thương lượng, đàm phán được để có thể làm cơ sở ký kết hợp đồng chính thức sau này. Văn bản này được gọi là biên bản ghi nhớ.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết với nhau bản ghi nhớ về vấn đề hợp tác trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền kế cận giữa cục bản quyền tác giả nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cục Bản quyền quốc gia nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa.
Qua bản ghi nhớ này, hai nước đã trao đổi với nhau một số vấn đề như: Trao đổi, phổ biến thông tin, tài liệu có liên quan đến quyền tác giả và quyền kề cận, bao gồm cả mạng thông tin điện tử; Phát triển nguồn nhân lực con người trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền kề cận, bao gồm cả việc đào tạo chuyên gia; Hai bên thông qua những chuyến viếng thăm lẫn nhau để cùng nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm; Tăng cường hợp tác giữa hai Bên trong phạm vi quốc tế về quyền tác giả và quyền kề cận; Thúc đẩy hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ của hai nước trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền kề cận.
Điều khoản hợp tác này không những không được gây nguy hại đối với pháp luật và quyền lợi của mỗi Bên, mà còn không gây bất kỳ ảnh hưởng nào đối với những văn bản pháp luật về quyền tác giả và quyền kề cận mà hai Bên hay nhiều bên ký kết với nhau.
Bản ghi nhớ này có hiệu lực khi hai Bên ký kết thông báo cho nhau về việc thực hiện các điều khoản trong Bản ghi nhớ. Hai Bên trao đổi văn bản nhanh chóng theo quy định ở khoản 1 Điều này trong Bản ghi nhớ, chậm nhất không quá (06) tháng kể từ ngày hai Bên ký Bản ghi nhớ này. Hai Bên có thể sửa đổi Bản ghi nhớ này thông qua trao đổi văn bản.
Bản ghi nhớ này ký tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 14 tháng 9 năm 1998, được làm thành hai bản, một bản bằng tiếng Trung và một bản bằng tiếng Việt. Hai bản đều có giá trị như nhau.
8. Tại sao bạn nên chọn TasLaw để tư vấn và đăng ký quyền tác giả
Đặt uy tín và quyền lợi của Quý khách hàng lên hàng đầu, cùng đội ngũ chuyên viên dày dặn kinh nghiệm, Taslaw tự tin cung cấp những thông tin pháp lý cần thiết và cùng quý khách hàng hoàn thiện bộ hồ sơ đăng ký quyền tác giả một cách nhanh chóng và thuận tiện thông qua những dịch vụ sau:
-
Tư vấn khái quát về quyền tác giả, giúp quý khách hàng nắm được các quyền của mình
-
Chuẩn bị hồ sơ đăng ký quyền tác giả
-
Đại diện quý khách hàng đăng ký và nộp hồ sơ
-
Trao hồ sơ tận tay quý khách hàng
-
Giải quyết sự cố phát sinh trong quá trình làm thủ tục, chịu trách nhiệm trong phạm vi của mình.
Quý khách quan tâm dịch vụ vui lòng liên hệ:
Công ty Luật TNHH T.A.S
Địa chỉ: Số 4 ngách 56 ngõ 1 Đại Linh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 0944 993 480
Email: [email protected]
Website: https://taslaw.vn