Theo khoản 1 Điều 19 Nghị định 01/2021/NĐ-CP quy định về Xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp như sau:
“Điều 19. Xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
1. Không được sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của tổ chức, cá nhân đã được bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp được sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại, nhãn hiệu đó. Trước khi đăng ký đặt tên doanh nghiệp, người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp tham khảo các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã đăng ký và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý của cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.
…”
Theo đó, nếu doanh nghiệp sử dụng tên thương mại đã được bảo hộ của tổ chức, cá nhân khác để đặt tên cho doanh nghiệp của mình mà không có sự đồng ý của họ thì được xem là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 19 Nghị định 01/2021/NĐ-CP cũng quy định thêm rằng:
“Điều 19. Xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
…
2. Căn cứ để xác định tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện theo các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu đặt tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thì doanh nghiệp có tên vi phạm phải đăng ký thay đổi tên doanh nghiệp.”
Đồng thời, theo hướng dẫn tại Điều 9 Thông tư liên tịch 05/2016/TTLT-BKHCN-BKHĐT và Điều 19 Nghị định 01/2021/NĐ-CP thì trình tự, thủ tục thay đổi tên doanh nghiệp, loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp khi có văn bản kết luận tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được tiến hành theo các bước sau đây:
Bước 1: Khi cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm ra văn bản kết luận về việc sử dụng tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm gửi văn bản đó cho chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp vi phạm.
Đồng thời, tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận, thương lượng trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ban hành văn bản kết luận này.
Bước 2: Nếu các bên đã đạt được thoả thuận trong thời hạn quy định và đề xuất biện pháp giải quyết phù hợp quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên thứ ba, người tiêu dùng và xã hội thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm ra văn bản thông báo ghi nhận sự thỏa thuận đó và dừng giải quyết vụ việc.
Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì chủ thể quyền sở hữu công nghiệp có quyền gửi văn bản thông báo đến Phòng Đăng ký kinh doanh để đề nghị doanh nghiệp có tên xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải thay đổi tên gọi cho phù hợp.
Kèm theo văn bản đề nghị của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp phải có bản sao các giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định 01/2021/NĐ-CP.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ giấy tờ hợp lệ, Phòng Đăng ký kinh doanh ra Thông báo yêu cầu doanh nghiệp có tên xâm phạm đổi tên doanh nghiệp và tiến hành thủ tục thay đổi tên trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày ra Thông báo.
Bước 3: Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày ra Thông báo, nếu doanh nghiệp có tên xâm phạm tiến hành thủ tục thay đổi tên doanh nghiệp thì Phòng Đăng ký kinh doanh thông báo cho cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm, chủ thể quyền sở hữu công nghiệp trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày Phòng Đăng ký kinh doanh chấp thuận.
Nếu sau thời hạn trên mà doanh nghiệp vẫn không đăng ký thay đổi tên doanh nghiệp theo yêu cầu thì Phòng Đăng ký kinh doanh thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, theo đó áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thay đổi tên doanh nghiệp hoặc buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp nhưng tổ chức, cá nhân vi phạm không thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm thông báo cho Phòng Đăng ký kinh doanh để yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp không báo cáo thì Phòng Đăng ký kinh doanh thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.